Trận Narva, diễn ra vào tháng 11/1700, là một trận đánh gây chấn động của đại chiến Bắc Âu (1700 – 1721) giữa quân đội đế quốc Thuỵ Điển và quân đội Nga.
Quân đội Thụy Điển dưới sự lãnh đạo của vua Charles XII khi đó mới 18 tuổi gây bất ngờ khi đánh bại quân Nga của Peter Đại đế, dù quân số chỉ chưa bằng 1/4.
Sau trận đánh này, Peter Đại đế lập tức thúc đẩy việc hiện đại hóa quân đội, trong khi vua Charles XII tự tin cho rằng Nga không còn là mối đe dọa lớn với Thụy Điển.
Bối cảnh đối đầu
Theo trang ThoughtCo, từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 18, Thụy Điển là cường quốc thống trị vùng Baltic. Việc giành một số chiến thắng trong Cuộc chiến 30 năm (1618-1648) giúp Thụy Điển mở rộng các vùng lãnh thổ trải dài từ miền bắc nước Đức đến vùng Karelia và Phần Lan.
Việc Thụy Điển mở rộng lãnh thổ khiến một số nước ở vùng Baltic bất mãn. Trong giai đoạn 1697 – 1699, một liên minh chống Thụy Điển được thành lập gồm các thành viên Nga, Đan Mạch và Ba Lan.
Năm 1700, các đồng minh của Nga là Đan Mạch và Ba Lan tuyên chiến với Thụy Điển, đánh dấu sự khởi đầu của đại chiến Bắc Âu kéo dài 21 năm.
Thời điểm này, nước Nga của Peter Đại đế đang lo ký hiệp định đình chiến với Đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ). Sau khi ký xong hiệp định đình chiến, Nga chính thức tuyên chiến với Thụy Điển vào tháng 8/1700.
Cùng thời điểm này, Thụy Điển tạm thời loại Đan Mạch khỏi vòng chiến đấu sau khi giành một số chiến thắng và buộc Đan Mạch phải ký hiệp ước Travendal, trong đó có điều khoản Đan Mạch cam kết không tham gia liên minh chống Thụy Điển. Quân Ba Lan của vua August II lúc đó cũng rút về trú đông nên không còn là mối bận tâm với vua Charles XII.
Như vậy, liên minh chống Thụy Điển chỉ còn Nga là động binh. Peter Đại đế lý giải mục đích cuộc chiến là muốn giành lại 2 tỉnh Ingria và Karelia. Vị Sa hoàng nhận thấy để giành được 2 tỉnh trên cần phải kiểm soát được pháo đài Narva, dù đây không phải là mục tiêu ban đầu của Nga. Trận Narva diễn ra vào tháng 11/1700.
Sự chuẩn bị của Thụy Điển – Nga
Theo nhà sử học Anh Jeremy Black, đích thân vua Charles XII là tổng tư lệnh của quân đội Thụy Điển, hỗ trợ ông có thống chế Carl Gustav Rehnskiöld và chỉ huy kỵ binh, tướng Otto Vellingk.
Theo trang RusMilHist, Rehnskiöld và Vellingk đều là những người giàu kinh nghiệm chinh chiến. Thống chế Rehnskiöld từng tham gia cuộc chiến tranh Pháp – Hà Lan (1688 – 1697), trong khi tướng Vellingk là người có gần 40 năm kinh nghiệm chiến đấu.
Về phía Nga, chỉ huy cao nhất vẫn là Peter Đại đế và dưới ông là một tướng ngoại quốc Charles Eugène de Croy và thống chế Fyodor Alexeyevich Golovin. Một ngày trước trận Narva, Peter Đại đế bất ngờ rời khỏi doanh trại về nước để lo việc triều chính đột xuất.
Lý giải điều này, một số sử gia cho rằng Peter Đại đế quá tự tin. Vị Sa hoàng cho rằng quân đội Thụy Điển, với quân số ít hơn, sẽ không dám đánh úp quân đội đông đảo của Nga. Và kể cả nếu bị tấn công, quân Nga cũng sẽ dễ dàng đẩy lui quân Thụy Điển.
Một số sử gia khác lại cho rằng việc Peter Đại đế rời đi là một hành động không xứng đáng của bậc quân vương. Nhưng nhiều học giả cho rằng nhận định này không có nhiều giá trị vì nếu lựa chọn rời đi vì hèn nhát thì Peter đại đế đã không đích thân dẫn quân tới đánh Thụy Điển. Đồng thời, việc rời đi này vô tình cũng sẽ đặt vị Sa hoàng vào tình thế nguy hiểm vì có thể bị quân Thụy Điển chặn đường bất cứ lúc nào, theo nhà sử học người Mỹ Robert K. Massie – người dành cả sự nghiệp nghiên cứu về hoàng gia Nga trong giai đoạn 1613-1917.
Peter Đại đế rời đi và hộ tống ông còn có cả thống chế Golovin. Việc chỉ huy quân đội được tạm thời giao cho tướng ngoại quốc Charles Eugène de Croy – người chưa có nhiều kinh nghiệm trận mạc.
Eugène de Croy là tướng Ba Lan được vua August II cử đến Nga cùng một phái đoàn ngoại giao để xin Peter Đại đế một nhóm quân Nga tinh nhuệ hỗ trợ Ba Lan chiến đấu.
De Croy không ít lần từ chối việc chỉ huy quân Nga nhưng cuối cùng cũng bằng lòng sau khi được Peter Đại đế động viên bằng một cốc rượu. Vị tướng Ba Lan nhận trách nhiệm chỉ huy quân Nga vào ngày 19/11/1700.
Quân Nga gần pháo đài Narva được phân làm 3 cánh quân chính do các chỉ huy Avtonom Golovin, Trubetskoy và Weide lãnh đạo. Cả 3 chỉ huy này còn rất trẻ, chừng hơn 30 tuổi, và kinh nghiệm trận mạc của họ rất hạn chế.
Trong khi đó, Boris Petrovich Sheremetev – một chỉ huy giàu kinh nghiệm và từng giành nhiều chiến thắng trước đế chế Ottoman – lại chỉ được giao chỉ huy một nhóm kỵ binh Nga.
Về pháo binh, vua Charles XII của Thụy Điển giao cho Johan Siöblad – một tướng có gần 40 năm kinh nghiệm chiến đấu – chỉ huy đội pháo binh. Trong khi đó, chỉ huy pháo binh Nga là Alexander of Imereti, một hoàng thân 26 tuổi – người chỉ có vài tháng nghiên cứu về cơ sở lý thuyết của việc chế tạo súng năm 1697.
Chiều 18/11/1700, vua Charles XII cùng binh sĩ tới tiếp viện cho pháo đài Narva. Quân Thụy Điển tiếp cận làng Lagena – cách Narva hơn 10 km. Thời điểm đó, vua Thụy Điển không biết chắc chắn liệu pháo đài Narva đã bị quân Nga chiếm hay chưa nên lệnh cho quân lính bắn súng ra hiệu. Một tiếng súng vọng ra từ bên trong pháo đài là tín hiệu tốt với Charles XII – Narva vẫn do Thụy Điển kiểm soát.
Quân Nga nhận được tin báo quân tiếp viện của Thụy Điển đã đến nên tướng De Croy ra lệnh tăng cường cảnh giác và chuẩn bị vũ khí sẵn sàng chiến đấu.
Ngày 19/11/1700, vua Charles XII bố trí 9.000 quân ở vị trí đối diện với phía quân Nga bao vây pháo đài Narva. Quân số của người Nga khi đó rơi vào khoảng từ 34.000 đến 40.000 người, theo Robert I. Frost – một nhà sử học người Anh.
Quân Thụy Điển tiếp cận doanh trại của người Nga vào khoảng 10h và chuẩn bị tấn công. Charles XII cùng các tướng lĩnh kiểm tra vị trí chính xác của quân Nga. Một số nhóm binh sĩ Thụy Điển vượt qua các hào bao quanh doanh trại quân Nga. De Croy cho rằng đây chỉ là một nhóm quân tiên phong của Thụy Điển. Sheremetev – chỉ huy nhóm kỵ binh Nga, đề xuất dẫn quân ra khỏi vị trí cố thủ và tấn công quân Thụy Điển. Tuy nhiên, đề xuất này không được các tướng lĩnh khác ủng hộ.
Cuối cùng De Croy quyết định để quân đội Nga phòng thủ giữa 2 hàng thành lũy dài hơn 6 km. Tuy nhiên, khoảng không gian giữa các thành lũy không đều và có nhiều doanh trại nên gây khó khăn cho việc điều động, tập hợp binh lính. Ở trung tâm vị trí của quân Nga là đồi Goldenhof.
Vua Charles XII của Thụy Điển chia bộ binh thành 2 nhóm, hướng về phía bắc và phía nam đồi Goldenhof. Ở cánh phải (phía nam) của quân Thụy Điển là 11 tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của tướng Vellingk. Ở cánh trái (phía bắc) là 10 tiểu đoàn do thống chế Rehnskiöld lãnh đạo.
Kỵ binh Thụy Điển che chắn 2 bên sườn cho bộ binh và có nhiệm vụ ngăn quân Nga chạy khỏi công sự. Trong khi đó, 37 khẩu pháo của pháo binh của Thụy Điển được bố trí ở một khu vực nhỏ, bắn phá những vị trí trọng yếu của Nga mà Thụy Điển đã lên kế hoạch tấn công trước đó, theo nhà sử học Mỹ Robert K. Massie.